TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI

BÀI THẢO LUẬN TRIẾT HỌC NHÓM 3
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI


I. Hoàn cảnh lịch sử

Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt

của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa

học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc

điểm mới.

Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước

Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai

cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách

mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648);

Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây

Âu. Nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kỹ thuật phát triển mà trước

hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển.

Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực

nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức

trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có

nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân

chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu

hình.









Những triết gia tiêu biểu của thời kỳ này là: Phranxi Bê cơn, Rơ nê Đê các

tơ, Rút xô, Đi đrô, Hôn bách,…

II. Đặc điểm Triết học Tây Âu cận đại

- Do nhu cầu phát triển nội tại, các khoa học cụ thể tách khỏi triết học (Hy

Lạp: Triết học là một môn khoa học tổng hợp).

- Triết học thời kỳ này chủ yếu là duy vật (bản thể luận và ý thức luận)

nhưng lại siêu hình về nhận thức luận do ảnh hưởng cơ học cổ điển.

- Trong các quan niệm về xã hội vẫn còn biểu hiện duy tâm. Duy vật

không triệt để.

1







III. Một số triết gia tiêu biểu

1. Fransis Bacon (1561-1626)

1.1. Vài nét chung

- Được xem là cha đẻ của chủ nghĩa duy vật Anh, cha đẻ của chủ nghĩa

kinh nghiệm và các ngành khoa học thực nghiệm hiện đại

- Nhà triết học duy vật siêu hình

+ Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực

nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức

trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có

nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân

chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu

hình.

- Bối cảnh lịch sử: Francis Bacon sống trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc

biêt của Anh và cả thế giới:

+ Thời kỳ Phục hưng, thời kỳ mà những giá trị của nhà thờ đang phải

chống chọi với những giá trị mới của tri thức.

+ Nước Anh nói chung và Bacon nói riêng chứng kiến sự tồn tại ba luồng

tư tưởng:

• Chủ nghĩa kinh viện của Aristotle: chỉ tìm cái đơn giản nhân danh tu từ

học chứ không hề nhắm đến cái trọng yếu của thực hành tự nhiên.

• Chủ nghĩa nhân văn Cơ Đốc: Đây là một lực lượng tích cực, biểu hiện ra

sự đối nghịch với chủ nghĩa khổ hạnh truyền thống của nhà thờ. Những

người theo trào lưu này đều ủng hộ cái đẹp của nghệ thuật, ngôn

ngữ và tự nhiên và tỏ ra khá thờ ơ với suy sư của tôn giác.

• Chủ nghĩa bí truyền: Nói một cách đơn giản đây chỉ là những nghiên cứu

về sự huyền bí. Đối tượng nghiên cứu của những nhà triết học theo trường

phái này đó là sự tương đồng thần bí giữa vũ trụ và con người và các lực

lượng siêu nhiên chi phối các quy luật tự nhiên.

2







1.2. Bản thể luận

- Phê phán Arixtot: cho rằng hình thức của vật chất do con người sáng tạo

ra)  Ông cho rằng hình thức là do tự nó có, bác bỏ quan niệm của Arixtot về

nguyên nhân – mục đích của tồn tại. (Theo Arixtot: có 4 nguyên nhân: Vật chất;

vận động; hình thức; mục đích).

- Cho rằng vật chất là tổng hợp các hạt, tự nhiên là tổng hợp những vật thể

có chất lượng khác nhau:

+ Ông cho rằng để lý giải được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới (giới

tự nhiên) chỉ cần mỗi vật chất là đủ. Có thể hiểu “Vật chất” là toàn thể các phần

tử rất nhỏ với những tính chất khác nhau

+ Thế giới tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất; mọi cái trên thế

gian chỉ tồn tại từ ba nguyên nhân: hình dạng, vật chất, và vận động. Trong đó

“hình dạng” của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản chất hoàn

toàn khách quan của nó, là nguyên nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật,

là bản chất chung của các sự vật cùng loại; “vận động” là bản năng của sự vật,

vật chất. Cả ba nguyên nhân này thực chất đều là bản tính của vật chất, là cơ sở

để lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ về tính đa dạng của thể giới. Cả ba

nguyên nhân "hình dạng", "vật chất" và "vận động", thực chất đều là bản tính

của vật chất. Vì thế vật chất có bản tính là tích cực, có sinh khí chứ không phải

thụ động.

- Vật chất có nhiều tính chất, nên vận động cũng đa dạng. Cụ thể:

+ Chia vận động vật chất ra 19 dạng:

1) Vận động xung đối;

2) Vận động móc nối;

3) Vận động giải phóng;

4) Vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới;

5) Vận động liên tục;

6) Vận động có lợi;

7) Vận động tự hợp lại với quy mô lớn;

8) Vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ;

9) Vận động từ tính;

3







10) Vận động sản sinh;

11) Vận động chạy trốn;

12) Vận động thức tỉnh;

13) Vận động mô tả ghi nhận;

14) Vận động ngoại tuyến;

15) Vận động theo xu hướng;

16) Vận động hùng tráng;

17) Vận động tự quay;

18) Vận động rung động;

19) Đứng yên.

+ F. Becon cũng khẳng định: đứng im là một hình thức của vận động,

việc coi đứng yên là một dạng vận động ở F. Becon là một quan niệm

duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó.

Nhận xét:




+ F. Becon đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và

đương thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa

bản chất của sự vật và vận động của nó, ông khẳng định vận động là đặc tính của

sự vật. F. Becon cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động của chúng.

+ Becon đã phân loại vận động theo cảm tính, mô tả, nhưng chưa phân

loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy

toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học; không

thấy được sự phát triển của thế giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những

hình thức vận động khác nhau về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc của

vật chất (vận động lý học, hóa học,…).

1.3. Nhận thức luận

- Tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức

- F. Becon đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết

học.




4







+ Khoa học phải được đẩy lên hàng đầu trong các môn quan trọng của

nhân loại vì nó có khả năng giảm nghèo đói, khả năng làm giàu và đưa xã hội

phát triển.

+ Nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, nghĩa là phải cải

tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó.

- Phản bác chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo

- Bacon phản bác chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo tuy sự phản bác đó mới

chỉ ở mức độ đòi khoa học và triết học độc lập với tôn giáo và thần học;

- F. Becon thừa nhận thuyết "Hai chân lý", cho rằng khoa học và tôn giáo

không nên can thiệp vào thẩm quyền của nhau.

- Chủ nghĩa kinh nghiệm

Không có tri thức bẩm sinh, mọi cái đều bắt đầu từ kinh nghiệm thực tế:

+ Ông cho rằng trong tâm hồn và lý tính của con người không hề có

những tri thức, biểu tượng hay ý niệm nào bẩm sinh, nguồn gốc duy nhất của tri

thức là kinh nghiệm.

+ Quan niệm tri thức cần đi từ cụ thể, kinh nghiệm đến khái quát và đưa

ra lý thuyết, Becon cho rằng phương pháp nhận thức tốt nhất là thực nghiệm,

quan sát, phân tích và quy nạp.

 Ông là người sáng lập ra phương pháp quy nạp và logic học quy nạp.

- Về vai trò của phương pháp

F.Becon chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người, và

gọi chúng là các ảo ảnh. Để nhận thức chân lí và khắc phục được các ảo ảnh, thì

phải vạch ra cơ chế và bản chất của chúng. Becon phân loại các dạng ảo ảnh như

sau:

+ Ảo ảnh loài: nó sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản

chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật ->dễ dàng gán

cho sự vật những đặc tính của riêng con người

Để loại trừ ảo ảnh này, con người trong nhận thức phải tôn trọng tính khách

quan, không được duy ý chí, chủ quan áp đặt tư tưởng của mình cho các đối




5







tượng, thận trọng thăm dò, tăng cường quan sát, thực nghiệm, thường xuyên

kiểm tra các tài liệu do cảm tính mang lại, loại bỏ những sai lầm về mặt logic…

+ Ảo ảnh hang động: Thực chất ảo ảnh hang động chính là ảo ảnh loài,

nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác nhau

Để hạn chế dạng ảo ảnh này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của mình,

thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể v.v..

+ Ảo ảnh thị trường: Nó xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái,

chạy theo các quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan

điểm phổ biến giáo điều, các tập quán truyền thống, trong đó bên cạnh

nhiều yếu tố tích cực, cũng chứa đựng không ít những điều lạc hậu.

phải bỏ thói quen dựa vào các quan niệm đang lưu hành và có thái dộ phê phán

đối với các thuật ngữ mơ hồ không chính xác.

+ Ảo ảnh sân khấu: Đó là những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết,

quan niệm thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý.

Ông khẳng định muốn nhận thức đúng thì phải phải hoàn toàn loại bỏ ảo

ảnh, khách quan xem xét sự vật với tinh thần phê phán, cách mạng chứ không

giáo điều. Tuy nhiên, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo ảnh của

F.Becon còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh nhận thức luận,

vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục ảo ảnh một cách hợp lý.

- Phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống

- Becon quan niệm chỉ dựa vào những lập luận tuỳ tiện không có nội dung

và chẳng đem lại lợi ích gì cho con người, triết học phải giúp con người trở nên

mạnh hơn. Nhiệm vụ của triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ

phức tạp của nó.

- Theo F.Becon, từ trước đến bấy giờ người ta chủ yếu dùng hai phương

pháp nhận thức là "phương pháp con nhện" và "phương pháp con kiến". Để khắc

phục những hạn chế nói trên, F.Becon đưa ra "phương pháp con ong" với bản

chất: những tri thức do cảm tính đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật

hoa thành mật ong, rút ra những tri thức mới bằng tư duy lý tính.

Phương pháp con nhện là phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng và cứ liệu

vụn vặt người ta đã vội vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một cách vô căn cứ

6







về bản chất của sự vật. Phương pháp đó chẳng khác gì con nhện chăng tơ, chỉ

trong khoảnh khắc đã xong nhưng không chắc chắn. Phương pháp con kiến là sự

miêu tả, lượm lặt, sưu tầm từng ít dữ kiện về sự vật, nhưng rốt cuộc chẳng biết

khái quát, rút ra những kết luận đúng đắn trên cơ sở những dữ kiện đó. Phương

pháp này chỉ cho ta hiểu những nét bề ngoài vụn vặt chứ không thể khám phá

được bản chất đích thực của sự vật

1.4. Quan điểm về xã hội

Coi con người là sản phẩm của tạo hoá, khoa học về con người cũng là khoa

học về tự nhiên

-




F. Becon chia linh hồn thành các dạng:




o




Linh hồn cảm tính: linh hồn động vật và linh hồn thực vật.




o




Linh hồn lý tính




-




Trong con người:




o




Linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể,




vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác

quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể và bị hủy hoại khi con người chết

đi.

o




Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế









Con người có 2 dạng linh hồn, con người vừa rất gần với động vật




lại vừa có cái gì đó siêu phàm

- Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu,

bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được

phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt

động khoa học, nghệ thuật của con người.

=> Bêcơn chưa phải là nhà duy vật triệt để, vì bàn đến xã hội, quan niệm

trên của F. Becon thể hiện sự thoả hiệp giai cấp tư sản Anh thời đó với các vấn

đề tôn giáo

Nhận xét chung:

- F. Becon là một trong những triết gia vĩ đại, là ông tổ của chủ nghĩa duy

vật Anh và khoa học thực nghiệm (C. Mác).

7







- Là người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ.

- Triết học duy vật của Becon đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển

của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.

- Về phương pháp luận, F. Becon là nhà duy cảm (mặc dù không cực

đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm; là người có công

khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp luận

mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại.

- Tuy nhiên, Bêcơn chưa phải là nhà duy vật triệt để, vì bàn đến xã hội,

ông thể hiện sự không tưởng khi ông miêu tả một xã hội lý tưởng dồi dào về

kinh tế, cuộc sống được tổ chức trên những cơ sở của khoa học và kỹ thuật cao,

nhưng vẫn duy trì sự đối lập giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.

2. Đecáctơ (1596- 1650)

2.1. Giới thiệu về Rơnê Decáctơ

Decáctơ là nhà triết học, nhà bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp, đại

biểu điển hình của chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVII.

Decáctơ sinh ngày 31- 03 – 1596, ở thị trấn Lahaye xứ Touraine thuộc

miền nam nước Pháp trong một gia đình dòng dõi quý tộc lâu đời. Ông mồ côi

mẹ từ nhỏ, mười tuổi bắt đầu đi học ở trường dòng – trường của giáo hội, sau đó

học luật sư. Triết học Decáctơ bắt nguồn từ tư duy, triết học đề cao con người

chứ không phải đặt con người bên cạnh tự nhiên như Bêcơ, Hốpxơ. Ngoài triết

học, tên tuổi Decáctơ gắn liền với toán học, vật lý học, sinh vật học với những

đóng góp quan trọng vào các lĩnh vực này.

2.2. Bản thể luận

- “ Nghi ngờ phổ biến”:

Theo Decáctơ, triết học phải bàn về khả năng và phương pháp đạt dược tri

thức đúng đắng, vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của nó là khắc phục chủ nghĩa hoài

nghi,và sau đó là xây dựng các nguyên tắc, phương pháp nền tảng để giúp cho

các nghành khoa học khám phá ra các qui luật của giới tự nhiên, xây dựng các

chân lý khoa học nhằm chinh phục giới tự nhiên. Xây dựng các chân lý khoa

học nhằm chinh phục giới tự nhiên, phục vụ lợi ích con người. Như vậy,

Decáctơ đã tự đặt cho mình nhiệm vụ là phải xây dựng một triết học mới - triết

8







học gắn liền với khoa học nhằm làm chủ tư duy, nâng cao trình độ lý luận cho

con người

Decáctơ cho rằng, để đạt được chân lý chúng ta cần phải nghi ngờ mọi

cái, kể cả cái mà người ta cho là chân lý.Với nguyên tắc nhgi ngờ trên, Đecáctơ

đề cao tư duy lý tính và coi thường kinh nghiệm, cảm tính trong hoạt động nhận

thức; vì vậy, ông đã đặt nền móng cho chủ nghĩa duy lý thời cận đại. Theo ông,

mọi cái tồn tai chỉ có thể trở thành chân lý khi chúng đuợc đưa ra phán xét dưới

”toà án” của lý tính nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại của mình. Nhgi ngờ phổ

biến, vì vậy là cơ sờ phương pháp luận của triết học Decáctơ.

- “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”: Dù dựa trên nguyên tắc nghi ngờ phổ

biến, nhưng Decáctơ không đi đến chủ nghĩa hoài nghi mà bác bỏ nó và xây

dựng nguyên lý cơ bản của toàn bộ hệ thống siêu hình học duy lý của mình –

nguyên lý “tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”. Tư tưởng này bộc lộ chủ nghĩa duy tâm

chủ quan của Decáctơ vì ông đã lấy tư tưởng, lấy suy nhgĩ của chủ thể làm khởi

điểm của sự tồn tại, nó đề cao vai trò tích cực của con người đối với thế giới ,

xem con người là trung tâm của các vấn đề triết học.Dựa vào nguyên lý trên,

Decáctơ đã xây dựng toàn bộ hệ thống siêu hình học của mình. Đối với ông, siêu

hình học phải là học thuyết chặt chẽ về Thượng đế, về giới tự nhiên và con

người, để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo hoạt động của con người hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính.

Lý luận về thượng đế, giới tự nhiên và con người:

Nội dung chủ yếu trong lý luận về Thượng đế là các chứng minh của ông

về sự tồn tại của Thượng đế. Theo ông, Thượng đế thực sự tồn tại, bởi vì mọi

dân tộc, mọi con người đều nghĩ về Thượng đế. Hơn nữa, sự tồn tại của Thượng

đế là cái đảm bảo sự tòn tại chắc chắn của giới tự nhiên cũng như sự tồn tại của

vạn vật sinh tồn trong nó. Giới tự nhiên chỉ có thể được tạo thành từ hai thực thể

tồn tại độc lập nhau: thực thể tinh thần phi vật chất và thực thể vật chất phi tinh

thần.Riêng con người là một thực thể đặc biệt được tạo thành từ hai thưc thể

trên, là bậc thang trung gian giữa Thượng đế và hư vô.

Lý luận về linh hồn, nhận thức và phương pháp luận nhận thức:

Linh hồn con người không chỉ bao gồm lý trí mà còn có cà ý chí nữa.Lý trí

mang lại khả năng nhận thức sáng suốt, đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn

lựa, phán quyết. Chính do khả năng lớn của mình mà ý chí có khả năng dẫn dắt

linh hồn sa vào sai lầm.

9







Hoạt động bản chất của linh hồn là nhận thức, nhận thức, theo Decáctơ, là

quá trình linh hồn lý tính xâm nhập vào chính mình để khám phá ra tư tưởng

bẩm sinh chứa đựng trong mình và sử dụng chúng để tiếp cận hế giới.

Decáctơ xây dựng lý luận về vật chất và vận động.Vật chất bao gồm các

hạt nhỏ, mịn có thể phân chia đến vô cùng tận. Bản chất của vật chất là quãng

tính.Vận động của vật thể lả vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật

thể trong không gian, theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học.

Khoa học:

+ Vật lý học:

Decáctơ xây dựng lý luận về vật chất và vận động.Vật chất bao gồm các

hạt nhỏ, mịn có thể phân chia đến vôcùng tận. Bản chất của vật chất là quãng

tính.Vận động của vật thể lả vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật

thể trong không gian, theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học.

+ Sinh học

Decáctơ phát triển tư tưởng duy vật máy móc về sự phụ thuộc của tinh

thần (tâm lý) vào cơ cấu vật chất, vào các cơ quan trong cơ thể.Từ đó, ông

khẳng định sự hình thành và phát triển của giới thực vật và giới động vật là quá

trình hoàn toàn tự nhiên không có sự can thiệp của Thượng đế.

+ Toán học:

Decáctơ có những tư tưởng biện chứng vượt thời đại. Decáctơ đã đặt nền

móng cho toán học hiện đại với việc tìm ra hình học giải tích, hàm số và phương

pháp đồ thị.

2.3. Phương pháp luận

Có bốn nguyên tắc phương pháp luận nhận thức là:

1. Chỉ coi chân lý những gì rõ ràng, rành mạch, không gợn một chút nghi

ngờ nào cả (nhờ vào trực giác).

2. Phải phân chia đối tượng phức tạp thành các bộ phận đơn giản cấu thành

để tiện lợi trong việc nghiên cứu.

3. Quá trình nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng nhất

dần dần đến những điều phức tạp hơn.

4. Phải xem xét toàn diện mọi dữ kiện, tài liệu để không bỏ sót một cái gì

trong quá trình nhận thức.

2.4. Tiến bộ

+ Tư tưởng tiến bộ nhất trong hệ thống triết học Decáctơ là niềm tin vô

tận vào lý trí, khoa học và những phương pháp mới. Với niềm tin ấy, ông tỏ rõ

thái độ chán ghét những cuộc cãi vã viển vông và sai lầm của các môn phái cũ.

10







ông muốn triết học phải rõ ràng và xác thực. Do chưa phân biệt rõ triết học với

các khoa học khác như chúng ta ngày nay nên ông chủ trương xây dựng một

phương pháp chung cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của trí tuệ.

+ Tư tưởng tiến bộ thứ hai mà Decáctơ các to để lại cho đời sau là những

nguyên tắc cơ bản của phương pháp. Sau Bêcơn, Decáctơ đã tìm cách xây dựng

một hệ thống phương pháp luận mới làm nền tảng cho sự phát triển của khoa

học. Ông chủ trương xây dựng môn "logic dạy cách vận dụng lý tính một cách

tốt nhất nhằm nhận thức những chân lý" mà con người còn chưa tìm ra. Đặc biệt

đề cao vai trò của lý tính, phương pháp luận của ông hướng tới hoàn thiện và

phát triển khả năng trí tuệ của con người, thúc đẩy nhận thức khoa học phát

triển. ông cho rằng một ai đó "dù đi rất chậm, nhưng nếu anh ta đi đường thẳng,

vẫn có thể vượt xa so với những ai mặc dù chạy nhưng lai không đi theo con

đường thẳng ấy"

+ Tin ở lý trí, lại biết dùng lý trí đó nên trong siêu hình học Decáctơ,

người ta đã tìm thấy một tư tưởng tiến bộ - đó là quan niệm của ông về vật chất.

Ông cho rằng cái vật chất đã vượt ra ngoài phạm vi của cái tâm lý. Song, vì chưa

thoát ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chưa dám và cũng không thể bác bỏ

những giáo lý trong Kinh thánh để nói rằng cái vật chất có ảnh hưởng đến cái

tinh thần, quyết định cái tinh thần, nên ông chỉ mới phân biệt linh hồn với thể

xác. ông cho rằng thế giới vật chất là một thế giới riêng biệt và nó chỉ tuân theo

những luật của vật chất, và do vậy, nhưng ai muốn nghiên cứu vũ trụ thì cần

phải rời bỏ hết những thành kiến của linh hồn.

3. Brutxo (1712-1778)

3.1. Vài nét về Brutxo

Giănggiăc Brutxo (1712 – 1778): ông là người Pháp, là nhà triết học duy

vật biện chứng, chủ yếu bàn về xã hội.Triết học của ông được gọi là triết học xã

hội.

Về thế giới quan, Brutxo theo thần luận và nhị nguyên luận. Ông thừa

nhận sự tồn tại của thần linh, linh hồn bất tử.

Về xã hội, tuy theo thần luận, nhưng với tư cách là nhà xã hội học, ông có

lập trường cấp tiến.

3.2. Quan điểm về bản chất và quá trình phát triển của xã hội




11







1. Lịch sử loài người chính là kết quả hoạt động của con người. Quan niệm này

đúng.

2. Bản tính của con người là tự do nhưng khát vọng tự do của con người luôn bị

kìm hãm, nguyên nhân la do sự bất bình đẳng trong xã hội (quan điểm đúng).

Nguyên nhân dẫn tới bất bình đẳng là:

+ Do thể chế chính trị xã hội: Do sở hữu tư nhân về TLSX và ông cho rằng

cái này có thể khắc phục được.

+ Con người vốn có sự khác nhau về thể lực và trí tuệ, sự bất bình đẳng này

là tự nhiên, sự bất bình đẳng này là đương nhiên. Quan điểm này đúng, giá trị

3. Lịch sử loài người là quá trình liên tục giải quyết mâu thuẫn và nảy sinh, là sự

thay thế liên tiếp của hình thái cao đối với hình thái thấp ( biện chứng). Ông

chia xã hội loài người thành 3 giai đoạn:

3.1.Trạng thái tự nhiên:

+ Các quan hệ XH còn thuần khiết, chưa có sự khác biệt nhiều về địa vị

kinh tế, địa vị xã hội.

+ Các quan hệ xã hội thuần khiết, chưa phức tạp.

+ Đây là thời kỳ bình yên, dài lâu và hạnh phúc nhất. Đến cuối thời kỳ

này, hình thành sở hữu tư nhân, tuy nhiên không thể tồn tại hình thức này mãi

được

3.2. Xã hội công dân:

+ Sự bất bình đẳng trong xã hội phát triển do xuất hiện sở hữu tư nhân,

hình thành kẻ giầu người nghèo.

+ Chiến tranh gia tăng

+ Nhà nước xuất hiện trên cơ sở khế ước xã hội (thỏa thuận) do nhân dân

lập ra tự phát (quan điểm của Rutxo khác với Mác: Nhà nước do giai cấp chủ nô

lập ra), về sau nhà nước bị tha hóa và quay lại thống trị nhân dân.

+ Các đạo luật ra đời truớc hết là luật sở hữu (trói buộc kẻ yếu, đem lại

sức mạnh cho kẻ mạnh. Quan điểm này mang tính giai cấp)

+ Không thể tồn tại mãi được, dựa trên chế độ tư hữu – chế độ thúc đẩy

xã hội phát triển nhưng biến con người thành bạo chúa của nhau và của tự nhiên.

3.3.Trạng thái tự nhiên trên cơ sở cao hơn:

12







+ Về mặt chính trị: thiết lập nền dân chủ cộng hòa

+ Về mặt xã hội: sự bất công trong xã hội được khắc phục, hạn chế.

+ Về mặt kinh tế: sở hữu xã hội là chủ yếu, nhưng vẫn duy trì sở hữu cá

nhân ở mức vừa phải (sao cho không tạo ra sự đối lập giữa các giai tầng, đẳng

cấp đồng thời tạo ra sự cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của xã hội). Quan điểm

này giá trị.

4. Ông cho rằng:

+ Một xã hội tiến bộ và ưu việt phải tạo điều kiện thúc đẩy cho khoa học

và nghệ thuật phát triển (quan điểm giá trị), bên cạnh đó phải dân chủ hóa đời

sống xã hội.

+ Điều kiện tự nhiên, đặc biệt là khí hậu ảnh hưởng trực tiếp tới thể chế

chính trị (Đây là mặt hạn chế của Rutxo)

Ôn đới  thể chế ôn hòa

Khí hậu nóng  thể chế chuyên quyền

Do Rutxo theo chủ nghĩa cảm giác, nghĩa là ông thừa nhận cảm giác là

nguồn gốc nhận thức.

3.3. Tiến bộ

Brutxo có lập trường cấp tiến: ông cho rằng một xã hội tiến bộ và ưu việt

phải tạo điều kiện cho khoa học và nghệ thuật phát triển.

Trong cuốn “ Khế ước xã hội”, ông phản ánh hoài bão của cách mạng tư

sản về tự do, bình đẳng, về các quyền của con người và công dân. Ông cho rằng

trong “trạng thái tự nhiên” của xã hội, quan hệ giữa người với người ngự trị một

tình hữu ái, tình hoà hợp, kh ông có chiến tranh xáy ra. Để duy trì trật tự xã hội,

theo Brutxo phải có một nhà nước được xây dựng trên ý muốn tự giác, trên cơ

sở hiệp thương của mọi người, thừa nhận nhân dân được nắm chính quyền, bảo

vệ dân chủ tư sản. Mô hình lý tưởng về nhà nuớc trên cơ sở khế ước xã hội phục

vụ con người của ông có nhiều tiến bộ, song ông chưa thấy được xã hội có giai

cấp.

4. Điđrô (1713-1784)

4.1. Vài nét chung:




13







Đơni Điđrô (1713-1784) là một nhà văn, nhà triết học và cũng là chủ

biên, tổ chức biên soạn cuốn Bách khoa toàn thư. Cuốn sách ghi lại hầu như

toàn bộ những thành tựu của thời kỳ khai sáng mang nhiều tư tưởng tiến bộ.

Đ.Điđrô là một nhà triết học duy vật điển hình của trào lưu khai sáng, vô thần và

duy lý sắc sảo. Ông đã có nhiều tư tưởng triết học tiến bộ, có giá trị tới ngày

nay. Một số tác phẩm triết học tiêu biểu như:

o Về việc giải thích giới tự nhiên (1754)

o Cuộc hội kiến của d’alembert với Đ.Điđrô (1769)

o Giấc mộng của D’alembert (1769)

o Những nguyên tắc của vật chất và vận động (1770)

4.2. Nhận thức luận

Ông thể hiện rõ quan điểm duy vật và vô thần của mình.

- Đ.Điđrô thừa nhận khả năng nhận thức về thế giới của con người. Ông

phê phán quan điểm máy móc coi cảm giác của con người là những bản sao

chép các sự vật chính xác như sự sao chép của một tấm gương. Ông cho rằng

nhận thức bắt nguồn từ cảm giác và vật chất là nguyên nhân duy nhất của cảm

giác.

- Ông cho rằng quá trình chuyển biến từ vô tri vô giác tới khả năng cảm

giác, tư duy gắn liền với quá trình phát triển của cấu trúc vật chất vô cơ, hữu cơ

đến sự sống và cơ thể con người.

- Đ.Điđrô đề cao vai trò quá trình nhận thức đối với sự phát triển của xã

hội, ông đưa ra tư tưởng biện chứng khẳng định vô tận cùng trong sự phát triển

của giới tự nhiên, cũng như quá trình nhận thức của con người. Tuy khả năng

nhận thức của mỗi cá nhân là hữu hạn, nhưng đối với nhân loại về nguyên tắc có

thể nhận thức được toàn bộ thế giới, mặc dù quá trình đó cũng là vô tận.

Cụ thể hơn:

 Đ.Điđrô đứng trên lập trường duy vật phê phán tính duy lý chủ quan, tính

tự biện và quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.

 Theo Đ.Điđrô tư duy bắt nguôn từ cảm tính, tri thức bắt nguồn từ kinh

nghiệm. Ông nói : “Có ba nguyên tắc để đạt được tri thức... quan sát tự

nhiên, suy ngẫm và thử nghiệm. Quan sát thu thập thực tế; suy ngẫm kết

hợp chúng; thử nghiệm xác minh kết quả kết hợp đó.

 Là một người theo chủ nghĩa vô thần, Đ.Điđrô phủ nhận quan điểm duy

tâm về Thượng đế. Ông khẳng định tính vật chất của thế giới và “Sự vận

động là hoàn toàn mang tính vật chất, nghĩa là nó tự vận động mà không

cần đến một xung động thần thánh nào cả”. Từ đó, mặc nhiên ông phủ

14







nhận vai trò của lực lượng siêu nhiên hay Thượng đế. Thượng đế là sự

thần thánh hóa cuộc sống hiện thực của con người. Vì vậy, không phải lực

lượng siêu nhiên mà đại diện cho nó là tôn giáo tạo ra con người mà chính

con người sáng tạo ra tôn giáo.

4.3. Bản thể luận

Đ.Điđrô có quan điểm duy vật, vô thần và duy lý rõ nét. Điểm xuất phát

của quan điểm này là sự thừa nhận tính vật chất của thế giới với câu danh ngôn

“Nếu muốn tôi tin vào Chúa, hãy để tôi chạm vào ông ta”.

+ Khẳng định thế giới là một toàn thể vật chất. Tự nhiên quy tụ lại chỉ là

một thực thể vật chất

+ Bản tính cố hữu của vật chất là vận động. Vật chất và vận động thống

nhất với nhau không tách rời. Đứng im cũng là vận động.

+ Khẳng định trong quá trình vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ chọn

lọc những gì giúp cho nó ngày càng hoàn thiện, đồng thời đào thải những vật

nào không thích nghi hoặc không tuân theo quy luật của nó …

 Với quan niệm này, ông là bậc tiền bối của thuyết tiến hóa của Đácuyn

(thuyết chọn lọc tự nhiên)

4.4. Quan điểm về thế giới

Ông Cho rằng: Thế giới vật chất có trước con người, tồn tại khác quan.

Nguyên nhân tồn tại của thế giới vật chất nằm ngay trong bản thân nó.

Vạn vật được cấu tạo từ phân tử, vạn vật đa dạng là do câc phân tử liên

kết với các hình thức khác nhau.

Vật chất và vận động thống nhất với nhau, không tách rời nhau, bản tính

cố hữu của vật chất là vận động. Chính vận động là năng lực sống động của vật

chất. Ông quan niệm sự dịch chuyển của vật thể từ vị trí này sang vị trí khác

không phải là vận động mà chỉ là sự di động, còn vận động thì có cả ở vật đang

vận động lẫn vật đứng yên, nguyên nhân của vận động là lực nội tâm trong mỗi

phân tử. Ông khẳng định, trong quá trình vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ

chọn lọc mhững gì giúp cho nó ngày càng hoàn thiện, đồng thời đào thải những

vật nào không thích nghi hoặc không tuân theo quy luật của nó. Cấu trúc và

trạng thái của các sinh vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự

15







nhiên Thế giới vật chất: Từ phân tử trơ ì  phân tử sinh động  vi sinh vật 

thực vật động vật  con người.

4.5. Quan niệm về con người

Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. Thể

xác và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có nguồn gốc từ

chúa mà là một tổng thể các hiện tượng tâm lý, là kết quả của sự phức tạp hóa

vật chất hữu cơ, linh hồn phụ thuộc vào vật chất và bộ não con người.

4.6. Quan niệm về tôn giáo

- Từ lập trường duy vật và quan điểm khoa học, Diderot phủ nhận sự tồn

tại của Thượng đế (không phải thượng đế sáng tạo ra con người mà con người

sáng tạo ra thượng đế)

- Bằng lý tính, khoa học mang lại cho con người hiểu biết đúng đắn về thế

giới để làm tăng sức mạnh của họ trong thế giới tự nhiên. Tín ngưỡng, tôn giáo

chỉ mang lại cho con người những ảo tưởng và làm suy yếu đi sức mạnh của

chính mình.

- Quan điểm của ông là tách tôn giáo ra khỏi nhà trường, không thể không

xóa bỏ tôn giáo, tiêu diệt giới tu hành, mở rộng khoa học và thực hành giáo dục

toàn dân.

Điều này cũng có nghĩa nguồn gốc tôn giáo của đạo đức con người cũng

bị bác bỏ. Ông cho rằng tôn giáo làm con người ảo tưởng về những điều không

thực và làm họ mềm yếu đi. Đạo đức của tôn giáo là giáo dục con người tin vào

số phận đã định trước và nó là một sợi dây yếu ớt để ngăn cản những hành vi

phạm tội của con người. Theo ông, chính cuộc sống hiện thực với môi trường và

hoàn cảnh đã tạo nên trí tuệ và đạo đức của con người.

4.7. Những tiến bộ của ông Đ.Điđrô

Đ.Điđrô đã đi từ chủ nghĩa duy tâm tới chủ nghĩa duy vật, ông là người

góp phần vào triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, là cơ sở cho cách mạng tư

sản Pháp năm 1789, là mốc đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến đồng thời

đó cũng là mốc Tây Âu bắt đầu từ giã nền văn minh nông nghiệp bước sang nền

văn minh công nghiệp.

Những điểm tiến bộ trong Triết học của Đ.Điđrô đó chính là chủ nghĩa

duy vật thể hiện khá rõ nét ở nội dung về tự nhiên, tâm lý học và lý luận nhận

thức:

16







Về giới tự nhiên, ông cho rằng vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, ở

trạng thái động, về sau chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định thế giới

vật chất tồn tại khách quan. Đ.Điđrô cũng đã đưa ra một số yếu tố của phép biện

chứng vào quan niệm duy vật máy móc về tự nhiên. Đó là tư tưởng về mối liên

hệ giữa vật chất và vận động, về những quá trình đang diễn ra trong giới tự

nhiên, về sự biến đổi vĩnh viễn của những hình thức tự nhiên. Ông coi bản tính

cố hữu của vật chất là vận động.

Về tâm lý học, Đ.Điđrô cho rằng con người là một thực thể thống nhất

hữu cơ của hai mặt thể xác và linh hồn. Cơ thể con người có khả năng cảm giác

và ghi nhớ. Linh hồn của con người là tổng thể các hiện tượng tâm lý, nó có đặc

tính vật chất. Không có cơ thể thì linh hồn không là cái gì cả. Đây là quan điểm

sơ khai của ông về ý thức con người, với vai trò vật chất sẽ quyết định ý thức.

Về lý luận nhận thức, Đ.Điđrô đã đứng trên lập trường duy vật phê phán

sự hạn chế của siêu hình học thế kỷ XVII về tính duy lý cực đoan, về tính tự

biện, về quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Ông cũng đã bác

bỏ quan điểm duy tâm về tính tự sinh của tư duy. Mặt khác, ông phê phán quan

điểm máy móc coi cảm giác của con người là những bản sao chép các sự vật

chính xác như sự sao chép của một tấm gương. Ông cho rằng trong nhận thức,

tư duy của con người bắt nguồn từ cảm tính, tri thức bắt nguồn từ kinh nghiệm.

Cùng với quan điểm vô thần, ông cho rằng không phải tôn giáo sáng tạo ra con

người mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo.

5. Hôn Bách (1723-1789)

5.1. Giới thiệu về Hôn bách và những tiến bộ của ông

Pôn Hăngri Hôn Bách (1723-1789) – một trong những nhà duy vật nổi

tiếng của Châu Âu thế kỷ XVIII, người khởi xướng phong trào khai sáng Pháp,

một trong những chủ biên cuốn Bách khoa toàn thư đầu tiên trên thế giới. Trong

suốt cuộc đời sáng tạo khoa học của mình, người chiến sĩ kiên cường trên mặt

trận tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp đã không mệt mỏi tuyên chiến với

những giáo điều tôn giáo, với những giáo luật khắt khe của Giáo hội và những

cấm kỵ vô lý của Nhà thê nhằm giải phóng con người khỏi những định kiến sai

lầm của xã hội, khỏi những ràng buộc hư ảo của thánh thần, đưa nhân loại đến

bến bờ chân lý, tiếp thêm sức mạnh cho họ phấn đấu không mệt mỏi vì hạnh

phúc đích thực ở chốn trần gian.

17







5.2. Nhận thức luận

Dựa trên cơ sở khảo sát tâm lý chung, Hôn Bách cho rằng, chính nỗi sợ

hãi của con người trước những hiện tượng mù quáng, dữ tợn, nguy hiểm, lạ lung

của tự nhiên đã đẻ ra niềm tin vào thần thánh. Nỗi sợ hãi là một hiện tượng tâm

lý bộc phát mang bản tính tự nhiên bẩm sinh tiềm ẩn trong tâm thức mỗi con

người, nó được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dưới sự tác động của nỗi

sợ, trong tâm trí con người hình thành hình ảnh ma quỉ, con người luôn tâm

niệm rằng, có những hồn ma nào đã can thiệp, quấy phá đời sống và ''trong nỗi

buồn tuyệt đỉnh, người bất hạnh đã sáng tạo nên hình bóng con ma, từ con ma

đó con người tiếp tục sáng tạo nên bóng hình Thượng đế''.

Yếu tố tâm lý thứ hai với tư cách là chất kích thích, xúc tác làm cho nỗi

sợ chuyển thành niềm tin thần thánh - đó là sự ngu dốt. ''Sự ngu dốt, lo lắng, tai

họa”. Theo logic của Hôn bách và các nhà duy vật Pháp đương thời thì đến lượt

mình, sự ngu dốt lạii làm điều kiện và tiền đề cơ bản cho sự dối lừa có ý thức

của kẻ trên đối với người dưới, của người khôn ngoan đối với kẻ nhẹ dạ, cả tin,

kém hiểu biết.

Như vậy, theo Hôn bách là các nhà duy vật Pháp thì nỗi sợ các hiện tượng

diễn ra một cách bất thường trong giới tự nhiên là nguyên nhân cơ bản ban đầu

làm phát sinh trong con người nguyên thủy niềm tin vào thần thánh. Sự ngu dốt

đóng vai trò như nguồn nuôi dưỡng, củng cố nỗi sợ, làm cho nỗi sợ hãi tăng

thêm. Sự ngu dốt đồng thời là tiền đề, là điều kiện chấp nhận dối lừa. Ba nhân tố

đã hội lại cùng một lúc trong con người nguyên thủy, làm phát sinh hình thái tôn

giáo nguyên sơ là Bái Vật giáo.

Để hiểu một cách sâu sắc về bản chất của tôn giáo, Hôn bách đã đầu tư

khá nhiều công sức trong việc nghiên cứu lịch sử phát triển của nó - đó là con

đường từ Bái vật giáo trong thời nguyên thủy qua Đa Thần giáo (Politheism)

thời cổ đại đến độc Thần giáo (Monotheism) thời trung đại, và tôn giáo dừng lại

ở Độc Thần giáo đó cho đến ngày nay.

5.3. Bản thể luận

Nhà thần học người Italia là Anselm (1033 - 1109) đã đưa ra suy luận:

Trong tâm khảm mỗi người luôn có một quan niệm về Thượng đế với tư cách là

một đấng toàn thiện, toàn mỹ, toàn năng. Những dấu hiệu này cũng đủ nói lên

rằng, Thượng đế tồn tại thực sự. Luận cứ này được nhà triết học duy lí người

18







Pháp là Descartes (1596-1650) khẳng định lại. Ông cho rằng, tất cả mọi người

đều coi Thượng đế là đấng toàn năng, vậy Thượng đế phải tồn tại, cũng giống

như đã công nhận hình tam giác thì phải công nhận nó có ba góc, nếu không tự

chúng ta sẽ mắc vào mâu thuẫn.

Nhận thấy tính vô căn cứ của phép chứng minh này, Hôn bách đã bác bỏ

nó. Theo Hôn bách thì mọi khái niệm, biểu tượng chỉ là kết quả tác động của thế

giới bên ngoài lên các giác quan nhận biết của con người. Khái niệm, biểu tượng

không thể tồn tại thiếu đối tượng, con người không thể có bất kì biểu tượng nào

nếu thiếu sự tác động của các đối tượng vật chất bên ngoài. Ý thức con người có

thể sản sinh nhiều biểu tượng mang tính ảo giác trên nhiều mức độ cao thấp

khác nhau, những điều này không có nghĩa là giữa chúng (biểu tượng và đối

tượng) có sự tương đồng khách quan. Có một sự khác nhau v̉ề nguyên tắc giữa

biểu tượng và nội dung khách quan (đối tượng) của biểu tượng đó. Điều này có

nghĩa là khái niệm, biểu tượng về Thượng đế trong đầu óc con người và sự tồn

tại hiện thực của người là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau, không thể từ khái

niệm, biểu tượng suy ra hiện thực. Đă là kết luận cuối cùng của Hôn bách dùng

để bác bỏ phép chứng minh bản thể luận của thần học.

Không dừng lại ở đây, trên những lập luận duy vật, Hôn bách tiếp tục phê

phán Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Subjective idealism) của nhà triết học người

Anh là Berkeley (1685 - 1753) và Thuyết “hài hoà tiền định (Preordained

harmonious) của nhà triết học người Đức là Leibniz (1646 -1716).

Holbach cho rằng, triết học duy tâm của Berkeley là sự tiếp tay cho thần

học, vì nhà triết học Anh ''đã cố gắng chứng minh rằng, dường như vạn vật trong

thế giới này chỉ là ảo giác và mơ tưởng, dường như toàn bộ thế giới tồn tại trong

bản thân chúng ta, trong trí tưởng tượng của chúng ta chỉ là sản phẩm của sự

ngụy biện”.

Ý thức được sự sai lầm về mặt thế giới quan và phương pháp luận của

Leibniz, Holbach tiếp tục tranh đấu để bảo vệ những luận điểm của chủ nghĩa

duy vật. Ông cho rằng, giới tự nhiên là một chính thể thống nhất tồn tại và phát

triển theo những quy luật tất yếu của mình, bên ngoài giới tự nhiên không có và

không thể có bất kì một tồn tại nào khác. Sự phát triển của giới tự nhiên làm

phát sinh các hiện tượng hợp lý - hài hoà, hoàn thiện hoàn mỹ, nhưng cụ̃ng làm

phát sinh không ít các hiện tượng mâu thuẫn và xấu xa tồi tệ, đặc biệt là trong

19







đời sống xã hội loài người. Thế giới chúng ta đang sống chan chứa hạnh phúc và

điều thiện nhưng cũng tràn đầy tội ác và nỗi bất hạnh.

KẾT LUẬN CHUNG

+ Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại mang hình thức của chủ nghĩa

duy vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong

lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.

+ Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại có tiến bộ về lĩnh vực xã hội,

nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích

lĩnh vực xã hội và lịch sử.

+ Triết học Tây Âu thời cận đại đặc biệt quan tâm tới vấn đề nhận thức

luận và phương pháp luận. Trong nhận thức luận họ thường đề cao một trong hai

giai đoạn của quá trình nhận thức là cảm tính hoặc lý tính nên không thấy được

tính biện chứng, thống nhất của quá trình nhận thức. Về phương pháp thì tuyệt

đối hóa một trong hai phương pháp diễn giải hoặc quy nạp do chủ thể mà không

do đối tượng hay mục đích quyết định.




20